--> -->
Dòng sự kiện:

Con gà trong tục ngữ, thành ngữ

20/01/2017 10:20

Chia sẻ
Hình tượng con gà rất gần gũi với đời sống nên được sử dụng nhiều  trong các câu tục ngữ, thành ngữ của kho tàng văn học dân gian Việt Nam, để phản ánh những hiện tượng và nhân sinh quan trong đời sống xã hội. Nhân năm Đinh Dậu, xin chép lại và giải nghĩa một số tục ngữ, thành ngữ có liên quan đến gà, góp cùng bạn đọc vui Xuân.
con ga trong tuc ngu thanh ngu “Dậu Dome” chào đón Tết con gà

Bán gà ngày gió, bán chó ngày mưa: Mùa gió gà hay toi, trời mưa chó xấu mã. Bán như thế thì bất lợi.

Chó già, gà non: Thịt chó già không tanh, thịt gà non mới mềm, ăn mới ngon. Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa: Kinh nghiệm về thời tiết. Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm: Khi không có người chỉ huy, kẻ xấu làm bậy. Con gà tốt mã vì lông: Người ta dễ bị thu hút bởi cái vẻ bên ngoài. Con gà tức nhau tiếng gáy: Tính ganh đua, không chịu kém người khác. Cơm chín tới, cải ngồng non, gái một con, gà mái ghẹ: Những thứ người ta ưa chuộng vì ngon vì đẹp.

con ga trong tuc ngu thanh ngu

Cơm gà, cá gỏi: Khen bữa ăn ngon và sang trọng. Đá gà, đá vịt: Làm ăn qua loa. Đầu gà, má lợn: Miếng ăn ngon.

Đầu gà còn hơn đuôi phượng: Đứng đầu một nơi còn hơn làm tớ kẻ khác. Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng: Cậy thế bắt nạt người khác. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau: Khuyên đoàn kết, gắn bó với nhau. Gà mái gáy gở (không biết gáy): Chê phụ nữ can thiệp vào việc đàn ông Gà nhà lại bới bếp nhà: Chê cùng phe cánh lại phá hoại lẫn nhau. Gà què ăn quẩn cối xay: Chê những người không có ý chí.

Hạc lập kê quần (con hạc giữa bầy gà): Người tài giỏi ở chung với kẻ dốt. Hóc xương gà, sa cành khế: Chỉ những điều nguy hiểm cần tránh Học như gà đá vách: Chê những người học kém. Khách đến nhà, chẳng gà thì vịt: Thể hiện sự hiếu khách của chủ nhà. Lép bép như gà mổ tép: Chê người ngồi lê mách lẻo.

Lờ đờ như gà ban hôm: Quáng gà, chê người chậm chạp, không hoạt bát. Lúng túng như gà mắc tóc: Chê người thiếu bình tĩnh, bối rối. Mẹ gà, con vịt: Cảnh của những trẻ em sớm mồ côi mẹ, phải sống với dì ghẻ. Mèo mả, gà đồng: Chỉ những kẻ vô lại, sống lang thang, làm bậy. Một tiền gà, ba tiền thóc: ý nói món lợi thu về không bằng công sức bỏ ra. Mỡ gà thì gió, mỡ chó thì mưa (mỡ gà vàng, mỡ chó trắng): Kinh nghiệm dân gian dựa vào màu mây đoán mưa gió.

Ráng mỡ gà, có nhà thì chống: Kinh nghiệm chỉ hiện tượng có bão. Ngẩn ngơ như chú bán gà, tiền rưỡi chẳng bán, bán ba mươi đồng: Chê người đần độn, không biết tính toán.

Ngủ gà, ngủ vịt: Ngủ lơ mơ, không thành giấc. Ngun ngủn như gà cụt đuôi: Nói một cái gì đó ngắn ngủi đến khó coi. Nháo nhác như gà lạc mẹ: Tả vẻ xao xác, đi tìm một cách lo lắng. Nhìn gà hoá cuốc: Chê người không nhìn rõ sự thật, lẫn lộn phải trái. Phù thuỷ đền gà: Làm không nên việc, phải đền lại phí tổn cho người ta. Quạ theo gà con: Nói kẻ xấu rình cơ hội để hại người.

Thóc đâu mà đãi gà rừng: Chỉ hành vi lãng phí hoặc quá tiết kiệm. Tiếc con gà quạ tha: Chê người tiếc cái không đáng tiếc. Tiền trao ra, gà bắt lấy: Chỉ sự sòng phẳng.Trấu trong nhà để gà ai bới: Việc trong nhà lại để cho người can thiệp.

Trói gà không chặt: Chê kẻ hèn yếu, không làm được việc gì nên thân. Vạ vịt chưa qua, vạ gà đã đến: Than phiền hết tai hoạ nọ đến tai hoạ kia. Vịt già, gà to: ý nói vịt già còn ăn được, chứ thịt gà già vừa dai vừa dở.

Khôi Việt

Nguy kịch vì chữa bệnh theo các bài thuốc dân gian

Thời gian gần đây, một số bệnh viện trên địa bàn Hà Nội đã tiếp nhận và điều trị cho nhiều trường hợp bệnh nhân nhập viện trong tình trạng nguy kịch do sử dụng các bài thuốc ruyền miệng để chữa bệnh. Với việc tin tưởng sử dụng những bài thuốc truyền miệng thường là các phương thuốc dân gian được truyền lại qua nhiều đời, được coi là cách chữa bệnh hiệu quả và ít tác dụng phụ, đã khiến nhiều người bị ảnh hưởng sức khỏe nghiêm trọng, thậm chí là tử vong nếu không được điều trị kịp thời.
Xem thêm